Minh Chính. Tụng Kinh, trì chú và niệm Phật là ba nghi lễ trợ duyên mang đến cho Phật tử công đức để đạt kết quả trên con đường tu học. Đã là Phật tử thì không ai không biết. Song đây vẫn còn có người cho rằng những nghi lễ này khá phức tạp, nếu thực hành sai thì sẽ mang tội với chư Phật. VẤN: Con nghe nói với những người bị ma nhập, bóng đè, bị dính bùa ngãi thì nên đọc tụng hoặc đeo giây chú Chuẩn Đề. Có người lại bảo nên đọc chú Lăng Nghiêm hoặc đọc tụng ngược mới đúng vì ngày xưa Ngài A Nan đã được giải thoát khỏi Ma Đăng Già là nhờ Đức Phật dùng chú Lăng Nghiêm hóa giải. Nhiễm Sắc Thể Là Gì. Mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyển cùng công dụng đúng theo pháp của cá thể, cơ quan, tổ chức và ích lợi của Nhà nước. Tố tụng dân sự bao gồm: khởi kiện vụ dân sự, những hiểu biết xử lý việc dân sự, thú lí vụ vấn đề dân Bạn đang thắc mắc về câu hỏi luật tố tụng dân sự là gì nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để kienthuctudonghoa.com tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi luật tố tụng dân sự là gì, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. . Bài viết dưới đây hi vọng sẽ Xem thêm: Kinda Là Gì - I Kinda Like You Là Gì » Tiếng Anh 24h. Khi trì tụng chúng ta cần phải thành tâm không được khinh xuất, chí thành tinh tấn, cung kính lễ nghi, bày tỏ lòng biết ơn đến phát nguyện vô đức vô lượng của Đức Phật Bồ Tát. Luôn tin tưởng vào lòng từ bi Thi hành án hành chính là một giai đoạn tố tụng độc áp, kết thúc quá trình tố tụng hành chính. bổ sung danh sách cử tri thì người có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa ngay khi nhận được hoặc phải thực hiện trong một lIKj. Khái niệm – xuất xứ- công năng – cách hành trì ___________________ THẦN CHÚ LÀ GÌ? Thần chú, còn gọi là chân ngôn, hay Đà La Ni hoặc Đà Ra Ni hiểu một cách nôm na, đó là những những mật mã bí ẩn hàm chứa chân lý và năng lượng tinh hoa của Vũ trụ, được các đức Phật và các vị Bồ Tát dùng trí tuệ của các ngài dồn nén lại trong những âm thanh cô đọng, từ ngữ cô đọng, tạo ra những câu thần chú hoặc những bài thần chú. Vì được dồn nén, cô đọng lại, nghĩa lý trong mỗi câu từ của thần chú là trùng trùng điệp điệp, sâu xa thăm thẳm không thể dùng tư duy của phàm phu mà hiểu được, chỉ có trí tuệ của các đức Phật, các vị đại Bồ Tát mới hiểu đầy đủ và đúng nghĩa của thần chú. Vì lẽ đó, thần chú không có dịch nghĩa, người trì tụng chỉ cần đọc với niềm tin mà không cần hiểu nghĩa, là đã có thể phát huy công năng của thần chú. Điều này khác với pháp môn đọc tụng kinh điển, cần phải hiểu rõ nghĩa mới có thể thực hành. Đọc với niềm tin mà chẳng hiểu nghĩa, việc này giống như khi chúng ta bị bệnh, chúng ta ra gặp dược sĩ, mua thuốc, uống vào là có thể khỏi bệnh. Các chuyên gia, giáo sư, tiến sĩ, dược sĩ… với trình độ chuyên môn cao thâm về y học, đem hiểu biết của mình điều chế các dược liệu với tỉ lệ chính xác, cùng với quy trình điều chế phức tạp để tạo ra các viên thuốc. Bệnh nhân muốn hết bệnh, chỉ cần uống thuốc với liều dùng phù hợp, thì sẽ khỏi bệnh dù chẳng hiểu các viên thuốc ấy thành phần là gì, được điều chế như thế nào. Không phải vì các giáo sư tiến sĩ của ngành y không muốn cho bệnh nhân hiểu rõ thành phần và cách điều chế của thuốc trước khi uống. Mà là vì việc đó quá khó khăn với trình độ của bệnh nhân. Cần mất rất nhiều năm, thậm chí là nhiều chục năm nỗ lực học tập nghiên cứu mới đủ trình độ để hiểu rõ thành phần cấu tạo, cách thức điều chế, nguyên lý hoạt động của một viên thuốc, nếu phải đợi lâu như thế để hiểu rõ, rồi mới uống thuốc, vậy thì bệnh nhân đã chết cả hết rồi. Vì thế, nên bệnh nhân chỉ còn một cách tin tưởng vào bác sĩ, vào hãng dược, uống thuốc theo chỉ dẫn mà không cần hiểu gì, là vẫn có thể khỏi bệnh. Việc này lại cũng giống như dùng chìa khóa để mở hòm kho báu đang khóa kín. Người được trao cho chiếc chìa khóa, không cần phải biết bên trong ổ khóa cấu tạo như thế nào, các trục bi, rãnh khớp sắp xếp như thế nào, chỉ cần đút chìa vào ổ khóa, vặn một cái, kho báu mở ra là có thể đem vàng bạc, châu báu đi tiêu xài. Cũng như vậy, những người có duyên, quyết định chọn pháp môn trì tụng thần chú để tu tập, thì chỉ cần tin tưởng vào trí tuệ và năng lực của các đức Phật và Bồ Tát, đã tổng trì ra các thần chú, y theo đó đọc tụng thì sẽ được kết quả vi diệu. Nếu không tin, vậy tốt nhất chúng ta nên chọn một pháp môn khác, Phật Pháp có rất nhiều pháp môn khác nhau cho chúng ta lựa chọn, không hợp môn này ta có thể chọn một khác, điều đó cũng không sao cả. Cũng phải nói thêm, thần chú không phải chỉ duy nhất đạo Phật mới có, mà các tôn giáo khác, các tín ngưỡng dân gian cũng có thần chú, nổi bật có thể kể ra như các thần chú của Lão giáo mà các đạo sĩ thường dùng để trừ ma, hay như các thần chú của thầy bùa, thầy Pháp trong dân gian. Điều khác biệt của thần chú trong Phật giáo, là luôn đem tới những điều tốt lành cho người trì tụng, không sợ phản ứng phụ, và luôn chứa đựng hạt giống Bồ Đề, chứa đựng những chủng tử của Phật, khiến người trì tụng luôn luôn tăng trưởng duyên lành, cho đến một tương lai xa xăm nào đó có thể thành Phật. – Vậy các thần chú của đạo Phật hiện nay được lưu truyền như thế nào? Khởi thuỷ, vào thời Đức Phật, hoặc chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc các đại Bồ Tát sẽ tuyên thuyết ra các thần chú. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, ngài A Nan đã kết tập các thần chú lại trong những kinh điển, không chỉ chứa câu thần chú, mà còn miêu tả rõ hoàn cảnh mà Đức Phật hoặc các vị Bồ Tát thuyết ra thần chú, cùng với công năng, cách hành trì… những thần chú được công khai truyền dạy đó, gọi là thần chú phổ thông, ai có duyên muốn đọc tụng cứ đọc. Ví dụ như chú Đại Bi do Quán Thế Âm Bồ Tát thuyết trong kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, chú Lăng Nghiêm được đức Phật Thích Ca thuyết trong kinh Lăng Nghiêm, chú Bảo Khiếp Ấn được Phật Thích Ca thuyết trong kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà-la-ni. Chú Vãng Sinh do Phổ Hiền Bồ Tát thuyết trong kinh Niệm Phật Ba La Mật… cùng với hàng ngàn thần chú được lưu truyền công khai trong rất nhiều kinh điển khác. Nếu muốn biết rõ chúng ta hãy dành nhiều thời gian nghiên cứu trong các tạng kinh của Đức Phật để lại, không nghiên cứu mà biết rõ hết được, nó là chuyện hái sao trên trời. Tuy nhiên, có rất nhiều thần chú mang đặc thù riêng, không phải ai cũng được phép đọc tụng, Đức Phật và các vị Bồ Tát chỉ truyền thụ riêng cho những người đủ căn duyên, đủ trình độ, đủ đức hạnh, và lưu truyền bí mật từ thế hệ này sang thế hệ khác, gọi là mật chú. Vì là bí mật, nên chúng ta cũng không cần tìm hiểu sâu làm gì, hàng ngàn thần chú phổ thông đã là quá đủ để mọi người hành trì theo. CÔNG ĐỨC, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI ĐỌC TỤNG THẦN CHÚ Mỗi một thần chú sẽ chữa đựng những công năng riêng, đăc thù riêng, xong thông thường sẽ có chung các đặc tính sau 1. Tiêu trừ nghiệp chướng Nhờ đó người đọc có thể thoát được các hoạn nạn, tai ương, bệnh tật, đau khổ… 2. Tăng trưởng phước lành Nhờ vậy người đọc có thể gặp được nhiều may mắn, tăng thêm trí tuệ, đức hạnh, gặt hái nhiều điều tốt lành… 3. Tạo ra công năng đặc thù của thần chú Ví dụ như chú Lăng Nghiêm có công năng trừ tà, phá ma chướng cực mạnh, chú Vãng sinh giúp người đọc tiêu nghiệp và sớm được vãng sinh về Tịnh Độ. Chú Biến Thực có công năng biến phẩm vật ra thật nhiều, chú Đại Bi là vạn năng, chữa bệnh cũng được, tăng trưởng trí tuệ, thần thông cũng được, mau chóng đắc đạo cũng được. Muốn biết rõ công năng của từng thần chú như thế nào, chỉ có cách là đọc kỹ trong kinh điển thuyết ra thần chú đó. 4. Chiêu cảm sự gia hộ của vị Phật, vị Bồ Tát thuyết ra thần chú đó. Đây là một điều vi diệu mà không phải pháp môn nào cũng có. Hầu hết các pháp môn trong đạo Phật, người tu phải tự dựa vào sức mình, gọi là tự lực. Nỗ lực hành trì bao nhiêu, thì được hưởng thành tựu bấy nhiêu. Riêng có 2 pháp môn, là trì tụng thần chú, và niệm danh hiệu chư Phật – Bồ Tát, sẽ nhận được thêm tha lực. Tha lực là như thế nào ? Khi trì tụng thần chú nào đó, hay niệm danh hiệu vị Phật – Bồ Tát nào đó, ngoài những công đức do nỗ lực tụng niệm mà có được, người tu còn nhận được sự gia hộ đặc biệt của vị Phật hoặc Bồ Tát – vị bổn tôn đã thuyết ra thần chú đó, cộng thêm rất nhiều thiện thần, hộ pháp trợ giúp cho sớm thành tựu, gọi là tha lực. Vừa có công đức do nỗ lực của bản thân mình, vừa nhận thêm tha lực của chư Phật – Bồ Tát, bởi thế nên những người tu theo hai pháp môn này, thường nhanh gặp được những linh ứng vi diệu. 5. Tăng trưởng Bồ Đề Tâm Hiểu một cách đơn giản, Bồ Đề Tâm là hạt giống ban đầu để có thể trở thành Phật. Một khi đã gieo trồng, hạt giống này vĩnh viễn không bị hư hoại, mà chậm rãi nảy mầm, lớn lên dần dần. Trải qua vô số kiếp, dù có đầu thai luân chuyển nhiều kiếp không còn nhớ gì nữa, dù có được làm người, hay phải phải làm súc sinh, ngạ quỷ, phải vào địa ngục, Bồ Đề Tâm cũng không mất đi, mà sẽ âm thầm dẫn dắt ta hướng về cái thiện, hướng về Phật Pháp để tu hành, tích lũy công đức lớn dần cho đến khi thành Phật mới thôi. 4 đặc tính đầu tiêu nghiệp, tăng phước, công năng đặc thù, gia hộ là hiện tại có thể thấy được, nhiều hay ít tùy thuộc mỗi người, còn đặc tính thứ 5 gieo chủng tử Bồ Đề phải vô lượng kiếp sau mới thấy. 4 đặc tính đầu cần phải đáp ứng khá nhiều yêu cầu khi hành trì mới đạt được, phạm phải những điều cấm kỵ sẽ mất đi cụ thể sẽ nói rõ ở bài sau còn đặc tính thứ 5, hễ có đọc là chắc chắn đã gieo được giống Bồ Đề Tâm, chẳng bao giờ mất. Với người trí tuệ có hạn, thích những thành quả đến ngay, thì sẽ coi 4 đặc tính đầu là quan trọng hơn đặc tính thứ 5. Nhưng với người có trí tuệ nhìn xa, xa đến vô lượng kiếp, thấu hiểu được sự lên xuống, được mất vô thường của mọi thứ, sẽ hiểu ra đặc tính thứ 5 – gieo chủng tử Bồ Đề để tương lai có thể thành Phật mới thực sự là điều trọng đại. ________________ HÀNH TRÌ CỤ THỂ TRÌ CHÚ LÀ LÀM SAO ? Đầu tiên bạn cần chọn cho mình một thần chú nào đó để hành trì. Mỗi người sẽ phù hợp với một thần chú khác nhau chứ không có bất kỳ quy định mang tính áp đặt nào. Bạn nên đọc qua nhiều kinh điển, tìm hiểu về tính chất, lợi ích của nhiều thần chú khác nhau. Sau đó thử đọc tụng mỗi thần chú một thời gian, rồi thông qua cảm quan của chính mình, chọn lấy một, hoặc nhiều thần chú mà bạn cảm thấy phù hợp nhất để đọc tụng hàng ngày. Cách thức trì tụng Đơn giản là bạn cứ đọc thôi. Có thể có một vài cách khác như biên chép, xong phổ biến nhất thì vẫn là đọc tụng. Một lần đọc hết từ đầu đến cuối một thần chú thì gọi là một biến. MC -Dạ xin cho hỏi mỗi lần trì chú mình phải đọc bao nhiêu biến ạ ? -Một buổi có thể đọc được bao nhiêu biến tùy tâm, càng nhiều thì càng tốt, càng nhiều công đức, không có luật nào cấm bạn đọc nhiều quá. Và cũng không ai phạt bạn nếu bạn nghỉ không trì chú cả. Chỉ là công đức sẽ tăng hoặc giảm, lợi ích bạn nhận được nhiều hay ít mà thôi. Vậy nên nếu bạn hỏi tôi phải trì bao nhiêu biến, tôi sẽ hỏi ngược lại bạn rằng Bạn muốn được bao nhiêu công đức ?’ Do cần duy trì đọc đi đọc lại như thế, nên việc đọc thần chú mỗi ngày gọi là trì chú. Ban đầu chưa thuộc thì cứ nhìn giấy đọc, khi thuộc rồi thì thôi. Bạn cứ đọc bình thường, không cần ngân nga theo giai điệu nào cả, miễn đọc rõ ràng là được. Tốc độ đọc bạn tự điều chỉnh nhanh chậm sao cho phù hợp với mình. Khi đọc thì tâm chú ý lắng nghe âm thanh thần chú của mình đang đọc, đó là cách dụng tâm căn bản nhất. Niệm Phật và tụng kinh cũng có cách dụng tâm giống như vậy, mình đang niệm gì, tụng gì, tâm biết rõ như vậy, không nghĩ ngợi chuyện khác. Xong thực tế không có đơn giản, nếu tâm vọng tưởng bay bổng nhiều quá, miệng đọc mà đầu toàn nghĩ chuyện khác, thì đến khi nào sực nhớ ra, bạn hãy kéo cái chú ý trở lại, tập trung nghe âm thanh thần chú. Việc này không có dễ, nếu cố gắng rồi mà mãi bạn vẫn không sao tập trung được, bạn cũng đừng có nản. Cho dù bạn mất tập trung, thì có đọc vẫn cứ luôn có công đức, không nhiều thì ít, luôn tốt hơn là không. Đừng có bỏ tu chỉ vì không tập trung được. Về tư thế, tốt nhất thì bạn nên quỳ, chắp tay mà đọc chú. Nhưng đừng máy móc, các tư thế khác như ngồi, đi, đứng cũng vẫn được. Với người tu hành lâu sẽ được học về cách kiết ấn tay, xong với người mới bắt đầu cứ chắp tay là được, đừng đặt nặng đến việc bắt ấn như thế nào. Tu tập nhiều năm, đủ duyên tự nhiên sẽ có người chỉ, không đủ duyên mà cứ cố tình tìm hiểu về kiết ấn, đó mới là nguy hại. Yêu cầu căn bản Mức độ đầu tiên của người trì chú, chỉ có một yêu cầu căn bản, đây là mức tối thiểu bạn phải tuân thủ khi đọc thần chú CHỈ ĐỌC THẦN CHÚ THÀNH TIẾNG KHI ĐẢM BẢO TRANG PHỤC CHỈNH TỀ, TƯ THẾ NGAY NGẮN, KHÔNG CÓ NẰM. CÒN LẠI NHỮNG LÚC TRANG PHỤC KHÔNG CHỈNH TỀ, như nam cởi trần quần đùi, nữ váy ngắn, áo hai dây, sát nách, hay khỏa thân… hay ở những nơi bất tịnh như nhà vệ sinh, làm những việc tế nhị không tiện nói ra, thì chỉ trì chú thầm trong tâm thôi. Khi nam nữ ân ái phải dừng hẳn không tụng niệm. Hãy cố gắng hiểu rõ yêu cầu này, nếu vi phạm sẽ thành tội bất kính với thần chú, các vị Hộ Pháp sẽ có biện pháp trừng phạt. Ngược lại, nếu không rõ yêu cầu cơ bản này, sẽ rơi vào bệnh máy móc, hơi chút lại sợ thế này được không, thế kia được không, đi hỏi hết người này đến người kia, tốn công mà cũng chẳng bao giờ trả lời hết được cho mọi trường hợp. Để giúp bạn tránh rơi vào bệnh máy móc, cũng như để hình dung mức độ nặng nhẹ khác nhau của từng yếu tố liên quan đến việc trì chú, Quang Tử sẽ tạm đặt ra một số quy ước với tỉ lệ % trong video này, để bạn dễ hình dung. Lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Giả sử có một người bắt đầu thực hành trì thần chú, ngoài việc giữ được YÊU CẦU CĂN BẢN nói trên, anh ta không có thêm bất cứ gì khác. Cụ thể hơn, anh ta đi ngoài đường, quần áo chỉnh tề, vừa đi vừa lầm rầm đọc một câu thần chú mới học trên mạng. Ngoài ra, anh ta chưa Quy Y nên cũng không biết giữ giới là như thế nào. Đi ngoài đường nên không có bàn thờ gì cả. Anh ta ăn mặn, cũng chẳng kiêng khem gì. Vừa đọc thần chú, đầu anh ta lại vừa phân tâm nghĩ đến việc sếp mới giao ở công ty, chẳng tập trung gì cả. Như vậy thì anh ta có được công đức gì chăng ? Chắc chắn là có, hễ cứ giữ đúng yêu cầu căn bản, thì có đọc thần chú là phải có công đức, không nhiều thì ít. So với một người khác, vì dập khuôn máy móc, cho rằng muốn trì chú là phải quỳ trước ban thờ Phật, phải có chuông có mõ, phải thế này thế kia, rất nhiều… Khi không đủ các tiêu chuẩn đó thì nhất định không trì chú. Xong không đọc thì cũng chẳng có tí công đức nào, là thua đứt so với người có đọc trên kia, đó là cái dở của tính máy móc, dập khuôn. Chúng ta sẽ tạm quy ước, lượng công đức có được khi một người đọc hết một bài thần chú, ở mức thấp nhất, chỉ vừa đủ đảm bảo YÊU CẦU CĂN BẢN đã nói ở trên thôi, không có thêm yếu tố gì khác, ở đây ta quy ước coi đó là 100%. MC -Vậy có cách nào để anh ta tăng thêm công đức của mình lên thành 200%, 300% …không ạ ? • Tin vui là có, và có rất nhiều yếu tố từ dễ đến khó để anh ta tăng công đức lên. Cách đầu tiên, rõ ràng và dễ hiểu nhất, là đọc nhiều lần. Đọc một biến thần chú thì có công đức của một biến. Đọc 2 biến thì công đức tăng gấp đôi, 3 biến tăng gấp 3, 21 biến tăng gấp 21 lần… và không có giới hạn nào cả ngoài giới hạn của sự kiên trì trong chính bạn. • Tiếp theo, nếu anh ta thêm được một yếu tố bàn thờ trang nghiêm. Nghĩa là hoặc anh ta đến chùa ở trước tượng Phật, hoặc về nhà nơi có sẵn bàn thờ Phật mà trì chú, thì mỗi biến anh ta sẽ tăng thêm được khoảng 10% công đức so với mức căn bản. Như vậy, mức căn bản ban nãy ta quy ước là 100% , giờ + thêm 10%, là = 110%. • Tiếp nữa, nếu mỗi tháng anh ta ăn chay được 10 ngày vào những ngày Thập Trai, thì tháng đó, mỗi biến thần chú anh ta đọc tụng, sẽ tăng thêm khoảng 10%. Vậy, mức căn bản 100% + 10% do đọc trước bàn thờ trang nghiêm + 10% do ăn chay tháng 10 ngày = tổng cộng 120 % trên mỗi biến. • Tiếp tục, nếu trong khi trì chú, anh ta cảm thấy rất hân hoan, vui thích, gọi là hoan hỉ, vậy thì công đức của anh ta sẽ tăng thêm 10% mỗi biến. Cộng lại, 100% của mức căn bản + 10% ăn chay tháng 10 ngày + 10% bàn thờ trang nghiêm + 10% tâm hoan hỉ = 130 % mỗi biến. Ngoài 3 yếu tố bàn thờ, ăn chay Thập Trai, hoan hỉ kể trên, còn có hàng chục yếu tố khác thậm chí còn tăng công đức nhiều hơn đến 30%- 50% trên mỗi biến, chúng ta sẽ quy ước gọi là yếu tố tăng công đức. MC – Vậy anh ta phải tuần tự đáp ứng hết các yếu tố đó phải không ạ ? -Không ! Anh ta không nhất thiết phải đáp ứng hết, không có máy móc như vậy, mà là tùy hoàn cảnh mỗi người, thêm được yếu tố nào thì hưởng thêm công đức của yếu tố đó, còn không làm được thì thôi. Cái cần phải lo là cái này. Ngoài các Yếu tố tăng công đức, chúng ta cũng có một loạt Yếu tố giảm công đức, nếu phạm phải, mỗi biến công đức sẽ bị giảm đi. Ví dụ, hàng ngày anh ta thường ăn tỏi, hành, hẹ, thì mỗi biến, anh ta sẽ bị giảm đi 90% công đức. Vậy 100% công đức mức căn bản – 90% do ăn hành tỏi = thì còn được 10% công đức. MC – Chà, yếu tố hành tỏi này cũng đáng ngại thật, làm tiêu hao đến 90% công đức có được, thảo nào trì chú mãi không thấy chuyển biến gì. Vậy phải chăng, nếu phạm nhiều điều quá thì càng đọc công đức của ta sẽ bị âm đi không ạ ? – Rất may là không. Ngoài hành tỏi, hay đúng hơn là Ngũ vị tân ra, thì ta còn 3 loại yếu tố giảm công đức nữa. Tuy nhiên, bạn đừng lo là phạm phải nhiều yếu tố giảm trừ thì sẽ bị âm, chuyển thành có tội, có quả báo được. Không, cùng lắm thì bạn chỉ được hưởng rất ít công đức mà thôi, chứ không bị âm, đang tạo phước mà chuyển thành quả báo sao được. Như ở phần trước Quang Tử đã nói. Đó là công đức của việc trì chú sẽ có 5 loại. Nếu phạm phải các yếu tố giảm công đức, thì cũng chỉ làm giảm bớt, hoặc mất đi 4 lợi ích đầu. Con lợi ích thứ 5 tăng Bồ Đề tâm luôn luôn vẫn có phần. Vậy nên bất luận như thế nào, bạn cũng hãy cố gắng duy trì. MC – Vậy xin cho biết có tất cả bao nhiêu yếu tố tăng công đức, bao nhiêu yếu tố giảm công đức, và xin phân tích làm rõ ạ. Về các Yếu tố tăng công đức có 18 yếu tố. Thấp thì tăng được 5%, nhiều thì tăng đến 50%. – Mức 5%, có yếu tố Trang phục chỉnh tề – Mức 10%, có 3 yếu tố + Hoan hỉ + Bàn thờ trang nghiêm + Ăn chay thập trai – Mức 20%, có 6 yếu tố + Căn cơ nhiều kiếp + Thần chú bổ trợ + Đọc to – rõ ràng + Chuyên nhất + Đọc chuẩn âm Phạn + Số lượng nhiều – Mức 30%, có 5 yếu tố + Giữ nghêm giới luật + Tập trung + Ăn chay trường + Từ bi – đức hạnh + Kiên trì – Mức 40%, có yếu tố Nghiệp nhẹ phước lớn – Mức 50%, có 2 yếu tố + Đức tin tuyệt đối + Tâm thành kính Lưu ý đây chỉ là dành cho người hành trì ở mức độ phổ thông, còn các bậc hành giả Mật Tông mật truyền sẽ còn nhiều yếu tố phức tạp khác như quán đảnh, kiết đàn, kiết ấn, nghi thức cúng dường . nhưng chỉ nội bộ mới biết, không có truyền ra ngoài, và ta cũng không cần tìm hiểu làm gì. 18 yếu tố sau đây là cũng đủ trở thành thách thức với hầu hết mọi người rồi. Về các Yếu tố giảm công đức, có 4 yếu tố, có thể giảm từ 10 -90% công đức. – Ăn ngũ vị tân giảm từ 10 -90% – Phạm các ác nghiệp giảm từ 10 -90% – Kinh chú thiếu chữ giảm từ 20 -70% – Nghi ngờ giảm từ 50 -99% Xin nhắc lại lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Mỗi người hoàn cảnh, căn cơ khác nhau, sẽ có sự giao động tăng giảm % không thể luôn chính xác. Cụ thể từng yếu tố như thế nào, mời bạn xem trong video đăng kèm bài viết này nếu không thấy, bạn có thể tìm trên kênh Youtube Quang Tử với từ khóa Thần chú hướng dẫn cách hành trì’ để xem với phần phần phân tích của một vị Chú sư Mật Tông. ______________________ Phật Pháp vi diệu nhưng rộng lớn quá, khiến bạn không biết bắt đầu từ đâu ? Hoặc bạn đã tìm hiểu nhiều xong vẫn còn cảm thấy chưa nắm được những điểm mấu chốt để áp dụng là những điểm nào ? Chính vì vậy, Quang Tử đã tóm gọn lại những bài viết mang tính then chốt, chứa đựng những giáo lý mang tính ứng dụng thực tế cao, được nhiều người quan tâm trong thời đại này, mà bất cứ người nào cũng cần nắm rõ, làm hành trang căn bản, để ứng dụng hóa giải mọi khổ đau của cuộc đời. 21 bài viết và video trong fanpage Facebook này, 21 chủ đề khác nhau, tuy chẳng là gì so với biển học mênh mông của Đạo Phật, xong hi vọng sẽ giúp bạn thỏa mãn khao khát tìm hiểu, nắm vững yếu chỉ then chốt. Hãy bấm vào link bên dưới và lần lượt khám phá từng bải viết. 21 BÀI HỌC THEN CHỐT I. BÀI HỌC 1. Định Nghĩa - Tụng kinh là đọc thành tiếng và có âm điệu hoặc đọc thầm những lời Phật dạy một cách thành kính. - Trì chú trì là nắm giữ, nhiếp niệm. Chú là lời bí mật của chư Phật. Trì chú là nhiếp tâm vào những bài thần chú. - Niệm Phật Niệm là nhớ nghĩ. Niệm Phật là nhớ nghĩ danh hiệu, hình ảnh và đức hạnh của chư Phật. 2. Ý nghĩa tụng kinh, trì chú, niệm Phật a. Ý nghĩa tụng kinh - Giúp cho chúng ta nhớ những lời Phật dạy để thực hành - Tụng kinh cho tâm hồn yên tịnh, trí tuệ mở bày. b. Ý nghĩa trì Chú - Chú có công năng phi thường, diệt trừ tất cả chướng nạn sâu dày. - Trì Chú giúp tâm trí được khai thông. c. Ý nghĩa niệm Phật - Niệm Phật để phá trừ tạp niệm, thanh tịnh tâm hồn, chuyển hóa nghiệp chướng. - Niệm Phật để cầu được vãng sanh. 3. Phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật - Tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, mặc áo trang nghiêm, đến trước bàn thờ thắp hương đảnh lễ rồi nhất tâm tụng niệm. - Tụng kinh đọc lớn tiếng, rõ ràng từng câu từng chữ, để tâm vào lời kinh tiếng kệ. Có thể tụng chuyên nhất 1 bộ kinh, hoặc tụng hết bộ kinh này rồi mới qua bộ kinh khác. - Trì chú và niệm Phật đọc lớn hoặc đọc thầm, phải nhiếp tâm vào câu thần chú hay danh hiệu Phật. Nên trì chuyên nhất vào 1 câu thần chú, niệm chuyên nhất 1 danh hiệu Phật. - Tùy thời gian thích hợp mà ta tụng niệm theo thời khóa. Hoặc bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể tụng kinh, trì chú, niệm Phật, cốt yếu tâm phải thanh tịnh, chuyên nhất. 4. Kết luận Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là những phương pháp tu tập giúp cho 3 nghiệp được thanh tịnh. Khi thực hành phải nhiếp tâm, dứt bỏ mọi tạp niệm. Chỉ cần thực hành chuyên nhất một trong 3 phương pháp này, có thể giúp chúng ta giải thoát khổ đau ngay hiện tại. II. LỜI KHẤN NGUYỆN Kính lạy Phật! Giáo pháp của Ngài đã giúp con mở rộng trái tim để tiếp nhận tuệ giác, tình thương. Con nguyện tu tập, nhất tâm tụng niệm, chuyển hoá thân tâm và truyền trao nguồn giáo lý này đến với mọi người, cho hết thảy đều được an vui. III. CÂU HỎI CHIA SẺ 1. Tụng Kinh là gì? Ý nghĩa việc tụng kinh? 2. Trì chú là gì? Ý nghĩa việc trì chú? 3. Niệm Phật là gì? Ý nghĩa việc niệm Phật? 4. Cho biết phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật? 5. Kể tên một vài kinh, chú, danh hiệu Phật mà chúng ta thường tụng niệm? IV. SINH HOẠT 1. Bài hát NIỆM PHẬT DI ĐÀ 2. Hương vị cuộc sống NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY Tác giả Lâm Thanh Huyền Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc. Chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng, nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên. Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng được gọi là Lục Tự Đại Minh Chú, có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng. Tội nghiệp cho bà già thôn dã đã dốt nát lại không biết chữ, trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lôn cách phát Âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh. Để khích lệ cho việc đọc câu Kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại. Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm. Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát Âm ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với Âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sữa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn. Hôm nọ có một vị Cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp sụp của bà, nhà Sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ. Vị Cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi. Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị Cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Vị Cao tăng lấy làm ngạc nhiên vìkhông hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu? Ông lần lần hỏi thăm - Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây còn có ai khác nữa không?. - Thưa Ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay. Bà lão đáp. - Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc buồn lắm nhỉ? - Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng Kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có can đảm để sống hơn. - Bà đang tu luyện Kinh sách nào vậy? - Ồ, tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Nhà sư thở dài tiếc nuối - Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng. Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm. Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà Sư. - Dù sao thì Ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được. Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông. Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng. Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung. Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú. Nhà Sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại âm u buồn bã. Nhà Sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng - Lúc nãy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng. - Nhưng tại sao Sư phụ lại dối gạt tôi như vậy? - Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi. - Cám ơn Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, đa tạ Sư phụ chỉ bày. Sau khi nhà Sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Nhà Sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời. CLB Hoằng Pháp Trẻ theo HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI 11 BÀI KINH HỘ TRÌ - PARITTA SUTTA"Cùng Tam Qui và Ngũ Giới mọi Phật tử phải học thuộc lòng bằng tiếng Pali Chịu khó học từ từ mỗi ngày một vài câu, và áp dụng thực hành vào đời sống, sau một vài năm sẽ thấy khác hẳn so với những người không học đều, thực hành đều chánh kiến, tín tâm, chánh tinh tấn, chánh niệm tăng trưởng, sẽ bớt dần đi tham sân si và sẽ an nhiên tự tại dần từng bước trước vui buồn của cuộc trọng cốt tủy của thành công là đều đặn học tập và thực hành hàng ngày, chứ không chỉ chờ tới khóa học, khóa cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc, luôn tinh tấn làm lành, lánh dữ, thanh lọc tâm, vun bồi phước thiện tạo duyên lành giúp sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự - Niết bàn. Trong tâm từ, Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala-🍀 11 Bài kinh Hộ Trì Parittapāli được lần lượt được đọc tụng bởi Thiền sư Chủ trì Thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery Yangon Myanmar - Ngài Sayadaw U Dammikabhivamsa, và được phân tích từ ngữ và ý nghĩa của từng câu Pāli bởi Sumangala Bhikkhu Viên Phúc dựa theo tài liệu soạn dịch bởi Tỳ Khưu Đức Hiền, NXB Tôn giáo 2011 "Kinh Hộ Trì - Phân tích từ ngữ Pali"PDF - - BÀI HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI" có tại các links dưới đây 🎯 YOUTUBE PLAYLIST AUDIO MP3 & YOUTUBE CHO TỪNG NGÀY❶ CHỦ NHẬT PARITTA- PARIKAMMA – BỐ CÁO KINH HỘ TRÌMAṄGALA SUTTA – KINH HẠNH PHÚCMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 1 – 6 Câu 7 – 9 Câu 10 – 11 Câu 12 – 13 Câu 14 – 16 Câu 17 - 19 Câu 20 – 24 THỨ HAI RATANA SUTTA – KINH CHÂU BÁUMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 25 Câu 26 – 29 Câu 30 – 32 Câu 33 – 35 Câu 36 – 39 Câu 40 – 45 THỨ BA METTA SUTTA – KINH TỪ BIMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 46 – 49 Câu 50 – 53 Câu 54 – 57 THỨ TƯ KHANDHA SUTTA – KINH KHANDHA MORA SUTTA – KINH CON CÔNG VATTA SUTTA – KINH CHIM CÚTMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 58 – 65 Câu 66 – 71 Câu 72 – 77 Câu 66 05-06 Mora-Vattasutta THỨ NĂM DHAJAGGA SUTTA – KINH NGỌN CỜMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 78 – 81 Câu 82 – 86 Câu 87 – 96 Câu 97 – 101 THỨ SÁU ĀṬĀNĀṬIYA SUTTA – KINH ĀṬĀNĀṬIYAMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 102 – 107 Câu 108 – 113 Câu 114 – 117 Câu 118 – 125 Câu 126 – 131 THỨ BẢY AṄGULIMĀLA SUTTA – KINH NGÀI AṄGULIMĀLA BOJJHAṄGA SUTTA – KINH GIÁC CHI PUBBAṆHA SUTTA – KINH BUỔI SÁNGMP3 YOUTUBE Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 132 – 134 Câu 135 – 137 Câu 138 – 140 Câu 141 – 145 Câu 146 Câu 146 – 152 Câu 153 – 158 Câu 159 – 164 Bản tụng đọc Pali 11 bài kinh hộ trì paritta xem tại bên dưới bài viết này và tại link này khảo đọc Pali 11 bài kinh hộ trì parittaNgài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Paauk Sayadaw Đại Trưởng Lão Thiền Sư Sīlānanda Sayadaw 🍀 MƯỜI MỘT MAHA PARITTA SUTTA-Những bài kệ bảo hộ của Đạo Phật trong phương thức truyền miệng được gọi là Gatha Kệ hay Mantra chú, sự tụng niệm mantra được tin rằng sẽ đem lại kết quả mong muốn nhờ phát triển sự bảo hộ hiệu quả hoặc bằng cách thúc bách sự trợ giúp của các thánh thần siêu Paritta hay Rakkhana là những bài nguyện nguyên thuỷ cầu sự thịnh vượng, an lành và hạnh phúc của tín đồ Phật giáo ở Miến Điện, nhưng dần dần các Paritta Gatha trở thành thần chú của Phật là một thuật ngữ kỹ thuật bắt nguồn từ gốc TA - RAKKHATTI có nghĩa là sự cứu hộ, bảo vệ hay canh chừng; với tiếp đầu ngữ PARI - toàn khắp SAMANTATO, có nghĩa từ mọi hướng. Do đó, các Paritta có thể được diễn giải là những chú bảo hộ của Phật giáo hoặc Mantra Raksha của Phật có nghĩa là lớn, cao, vĩ đại, hùng mạnh, và dồi dào. Do đó tuyển tập vĩ đại gồm những thần chú Phật giáo ở Miến Điện thường được gọi là MAHA PARITTA SUTTA Đại hộ trì kinh.Trong các loại Kinh bảo hộ, quan trọng nhất là tuyển tập mười một Hộ Trì Kinh Paritta Sutta. Những Paritta Sutta này được tụng niệm một mình hoặc tập thể nhiều người. Một số hoặc tất cả những Kinh sutta này được tụng niệm như một phần của những nguyện cầu thông thường của Phật tử, nhằm chống lại những hiểm nguy và tai hoạ, dù chúng tự nhiên hay siêu nhiên. Phòng tránh những biến cố không hay đang diễn ra và vô hiệu hoá các rủi ro từng xảy ra là hai mục đích chính của việc tụng niệm trong những dịp đặc điều quan trọng cần phải lưu ý là mỗi Paritta Sutta có một chức năng đặc trưng, mặc dù bất cứ paritta nào cũng có thể được tụng niệm như một biện pháp bảo hộ thông thường. Do đó, ví dụ như Angulimala paritta được tụng trong trường hợp sinh khó; Khandha paritta đề phòng việc rắn cắn và nhiễm độc; Vatta paritta nhằm dập tắt ngọn lửa hung dữ; Mora paritta nhằm giải thoát một người khỏi ngục tù; Bojjhanga paritta nhằm chữa trị các bệnh nhân bị bệnh nguy kịch vv..Tất cả mười một Paritta Sutta được quy định trong chương trình tu học Truyền thống Miến Điện và những học giả trẻ, những người mới nhập đạo, người mới tu và những người trợ lễ Kyaungtha, Pothudaw, Koyin và Upazin được rèn luyện để ghi nhớ chúng một cách trực tiếp từ nguyên bản Pali. Tất cả những bản văn này được chuyển dịch sang ngôn ngữ bản địa Miến Điện, và mỗi người Miến Điện trưởng thành được coi như đã hiểu tất cả hoặc một số Kinh này khi các nhà tu lớn tuổi tụng niệm chúng bằng tiếng Pali nhân danh những gia chủ trong các buổi lễ của làng. Những thực hành tôn giáo này vẫn còn hợp thời trong xã hội Phật giáo Miến Điện hiện Phật tử Miến Điện tỏ lòng tôn kính mười một Mahaparitta Sutta này y như họ tôn kính Tam Tạng Kinh Tipitaka Pali. Mặc dù sau này có nhiều sự dẫn giải và thêm thắt trong việc soạn thảo Paritta bởi những bậc hiền triết uyên bác thời xưa, tất cả những Sutta này đều chủ yếu được đặt nền trên những kinh Kinh Hạnh Phúc Mangala sutta đặt nền trên Tiểu bộ tập Khudda- kapatha và các bản văn Kinh tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ kinh Khuddaka nikaya.⒉ Kinh Châu Báu Ratana sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập Khudda- kapatha và bản văn Kinh Tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ Kinh Từ Bi Metta sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập và bản văn Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh Ngũ Uẩn Khandha sutta được dựa trên Tiểu phẩm thuộc Luật Tạng Vinaya pitaka Culavagga, những bản văn Bổn sanh truyện Jataka và TăngChi Bộ Kinh Anguttaranikaya.⒌ Khổng Tước Kinh Mora sutta dựa trên Bổn sanh truyện trong Tiểu Bộ Luân Hồi Kinh Vatta sutta dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng Cariyapitaka trong Tiểu Bộ Kinh Ngọn Cờ Dhajagga sutta dựa trên Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta nikaya, bản văn Tương Ưng Sakka Sakka Samyutha.⒏ Kinh Atanatiya sutta dựa trên bản văn Pathikavagga thuộc Trường Bộ Kinh Digha- nikaya- Pathikavagga và bản văn Kinh Pháp Cú trong Tiểu Bộ Angulimala sutta, Vô Não Kinh dựa trên bản văn Majjhimapannasa trong Trung Bộ Kinh Majjhima nikaya- Majjhimapannasa.10. Kinh Thất Giác Chi Bojjhanga sutta dựa trên bản Tương Ưng Kinh - Đại Phẩm Samyutha nikaya - Mahavagga Samyutta. buổi sáng tốt lành Pubbanha sutta dựa trên Tiểu Bộ Tập Khuddaka patha, bản văn kinh tập Sutta- nipata trong các bản Tiểu Bộ Kinh Khuddaka nikaya và Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara nikaya.[Trích Cẩm Nang tụng niệm của Phật tử Miến Điện]- 🍀 NGHE VÀ TỤNG KINH HỘ TRÌ PARITTA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG CÁCH ?-Kinh Hộ Trì Parittapāḷi là Kinh bảo vệ và mang lại những kết quả tốt đẹp. Điều quan trọng là những bài Kinh này được tụng đọc hay lắng nghe một cách đúng đắn. Có một vài điều kiện để thành tựu cả việc tụng đọc và lắng nghe nhằm mang lại những lợi ích của Kinh Paritta. Thật vậy, về người tụng đọc cần phải đầy đủ ba điều kiện và về người lắng nghe cũng có ba điều kiện sauI. Ba điều kiện cho người tụng đọc là1. Họ phải được học và tụng đọc những bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi này một cách chính xác và đầy đủ mà không bỏ Họ phải hiểu được ý nghĩa của các bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi khi được tụng Họ phải tụng đọc với tất cả trái tim đầy hoan hỷ và với từ Ba điều kiện cho người lắng nghe Kinh là1. Là người không phạm một trong năm trọng tội - Giết mẹ Mātughātaka; - Giết cha Pitughātaka; - Giết bậc A-la-hán Arahantaghātaka, - Làm chảy máu Phật Lohituppādaka. - Và chia rẽ Tăng chúng Saṅghabhedaka.2. Là người không có “Tà Kiến - Micchādiṭṭhi" như việc không tin Nghiệp Kamma và Nghiệp quả Kammavipāka.3. Là người lắng nghe những bài Kinh bằng sự tự tin ở kết quả từ việc nghe Kinh, thì sẽ tránh khỏi các sự nguy hiểm và mang lại kết quả khi những điều kiện này được đầy đủ, thì người này mới thành tựu những lợi ích của Kinh vậy, điều quan trọng là khi Kinh Paritta được tụng đọc và mọi người nên lắng nghe với niềm tin, sự kính trọng và bằng sự chú nữa, việc tụng Kinh Paritta được phát sinh 2 lợi ai tụng đọc như những người cho một cái gì đó; và những người lắng nghe giống như những người tiếp nhận một điều gì đó đã được họ không nhận lĩnh những gì đã được cho thì họ không nhận được gì. Nói rõ hơn, nếu người nào không lắng nghe việc tụng đọc, mặc cho những người khác tụng lên và người này làm các việc khác; thì họ chắc chắn không nhận những gì đã được cho, do vậy họ sẽ không thành tựu được từ những lợi ích của việc nghe kinh......“Này các Tỳ khưu, hãy học Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy học thuộc lòng Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy nắm giữ Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Này các Tỳ khưu, liên quan đến lợi ích là Hộ Kinh Āṭānāṭiya cho các vị Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, các cận sự nam và các cận sự nữ được bảo vệ, được hộ trì, không có bị xâm hại, được sống an vui”.Majjhimanikāya, Pāthikavaggapāḷi, bài kinh số 9, trang Myanmar 173.From FB Chánh pháp Hà nội- 🍀 103. PHẢI CHĂNG TỤNG KINH PARITTA THẬT KHÔNG CÓ LỢI ÍCH? Mi Tiên Vấn Đáp Đức Thế Tôn có dạy rằng "Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc trong lòng muôn trượng của quả đất - chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!". Điều ấy là chân lý chắc thật phải không đại đức?- Chẳng có lời nào của Đức Đại Giác là không hợp với chân lý, với sự thật!- Nếu là vậy thì tại sao Đức Tôn Sư lại nói rằng, người nào tụng kinh hộ trì an lành kinh Paritta thì sẽ thoát khỏi uy lực của tử thần? Rõ ràng là lời thuyết này đâm xóc lời thuyết kia? Rõ ràng là lời thuyết sau phá vỡ chân lý của lời thuyết trước? Và, chẳng lẽ nào Đức Đại Giác lại nói ra hai lời nghịch nghĩa như mâu với thuẫn, như nước với lửa, như sáng với tối như thế? Đại đức phải có bổn phận và trách nhiệm phá nghi cho người học Phật thời hậu lai và chống đỡ búa rìu của phường ngoại giáo nhiều môi lắm mép!- Dĩ nhiên là phải thế, tâu đại vương! Và dĩ nhiên là Đức Đại Giác chẳng bao giờ nói hai lời nghịch nghĩa! Sở dĩ có sự hiểu lầm là vì người ta chưa hiểu năng lực của kinh hộ trì an lành đó thôi!- Xin đại đức giảng cho nghe về năng lực Thưa vâng, đại vương, ngài nghĩ thế nào, ví như có một cái cây già cỗi đã nhiều năm, ruột bộng, bên trong hoàn toàn khô kiệt nhựa và mủ; nghĩa là cái cây ấy không còn sự sống, nó đã chết, đã chấm dứt tuổi thọ. Có người khởi lên vọng tưởng muốn cho cây được sống lại, được đâm chồi nẩy lộc; bèn tưới nước, thêm phân; ngày nào cũng siêng năng tưới tắm, bảo vệ, giữ gìn ... những mong cái cây ấy được sống lại! Đại vương nghĩ thế nào, với nỗ lực của người ấy, chăm chuyên tưới nước, săn sóc nó từ ngày này sang ngày nọ - cái cây chết khô kia có vì vậy mà nẩy tược, đâm chồi, mọc lá xanh tươi trở lại hay không?- Thưa, thật là việc làm vô ích của người ngu; cây đã chết rồi, đã chấm dứt tuổi thọ rồi thì chẳng có năng lực gì, nỗ lực nào làm cho sống lại được!- Cũng tương tự như thế đó, tau đại vương! Một người khi mà thân xác khô kiệt, tim đã ngừng đập, máu không còn chảy nữa, sự sống đã lìa khỏi thân xác, tuổi thọ đã cáo chung; thì dù tụng kinh với nhiều oai lực như kinh hộ trì an lành Paritta, tụng năm biến, ngàn biến, hay tụng cả bỏ ngủ quên ăn, không vì vậy mà người kia sống lại được, tâu đại vương! Khi mà tử thần đã khua lưỡi hái cướp đi sanh mạng của chúng sanh rồi thì chẳng còn uy lực nào chống đỡ hoặc ngăn cản được đội binh sấm sét và bất khả chiến bại của thần chết, tâu đại vương!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Thế là đại đức đã đồng ý với trẫm, là tụng kinh Paritta thật vô ích, kinh Paritta ấy chẳng thể nào ngăn cản uy lực của tử thần được!- Đúng thế, nhưng mà đại vương hãy nhẫn nại thêm một tí Thưa vâng,- Đại vương! Ví như có một bệnh nhân thọ bệnh trầm kha, cả lục phủ ngũ tạng đều nát bét, tim và mật đều không còn làm việc. Có một vị lương y đại tài với quyết tâm chữa trị cho bằng được, bao nhiêu thuốc thang, kinh nghiệm, phương dược bí truyền đều mang ra hết. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có chút may nào sống lại chăng?- Bệnh nhân ấy chuẩn bị quan tài là vừa, thưa đại đức!- Đúng thế, khi sự sống đã rời khỏi thân, khi thọ mạng đã bước ra khỏi cửa - thì việc làm của vị lương y trứ danh kia chẳng khác việc làm của người điên! Lúc ấy, diêm chúa và tử thần ái ngại nhìn vị lương y rồi nói rằng "Sanh mạng của người kia đã ở trong tay chúng ta rồi, ngươi muốn tụng kinh Paritta để hộ trì an lành và thọ mạng cho y thì chẳng khác nào phỉ báng Đức Phật và phỉ báng cả kinh Paritta!".- Hay lắm! dí dỏm lắm! Thế là thêm một lần nữa, đại đức đã đồng ý với Là vậy mà không là vậy, tâu đại vương! Xin ngài hãy nhẫn nại cho một tí nữa!- Xin sẵn lòng!Nghỉ hơi một lát, đại đức Na-tiên nói tiếp- Đại vương, ví như người điền chủ kia có một đám ruộng xanh tốt, đến thời, hạt lúa vàng nặng trĩu đầy cành. Nhưng vì tâm tham, người điền chủ muốn năng suất lúa phải bội thu hơn nữa, nên ngày nào y cũng thêm nước, rải phân! Đại vương nghĩ thế nào, với việc làm của người điền chủ, có vì thế mà hạt lúa nảy sanh thêm được chăng?- Thật không Cũng dường thế ấy, đại vương! Cây lúa già hạt trĩu đầy cành, vàng óng, là báo hiệu cây lúa sắp chết. Con người khi mà thân xác đã già, thọ mạng sắp ngưng dứt thì dẫu có thêm nước thêm phân, tụng kinh Paritta thảy đều vô ích, thọ mạng của người ấy không thể kéo dài ra, phát triển thêm được Trẫm hoàn toàn đồng Trở lại với các trường hợp trên thử xem. Ví dụ là cái cây cằn cỗi do thiếu phân, thiếu nước; nghĩa là tuổi thọ chưa chấm dứt, sự sống hãy còn; nếu ta chăm bón và nước nôi đầy đủ thì cái cây kia chắc hẳn là phải xanh tươi, phát triển cành lá sum suê chứ, đại vương?- Đích Cũng vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng - thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của người kia không, hở đại vương?- Chắc chắn là vậy rồi!- Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên không mỏi mệt tụng kinh Paritta - thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?- Lúc ấy thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm Thế kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!- Thật sự có lợi ích!- Đại vương, thế là đến ngang đây, đại vương đã tự bác bỏ câu phát ngôn đầu tiên của mình rồi!Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu- Có thể có một chút gì đó khá đúng. Nhưng ngài có thể cho nhiều ví dụ nữa để trẫm tiếp tục suy gẫm xem?- Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm - nếu uống đúng thuốc, đúng liều lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?- Vâng,- Và khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?- Vâng!- Một người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta - thì có ngăn được tử thần không, đại vương?- Có thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!- Thế là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực rồi!- Vâng, trẫm chấp nhận! Thế thì kinh Paritta chỉ hộ trì được những người có đức tin, những người thọ mạng chưa chấm dứt mà thôi, phải thế?- Thật là chính xác, tâu đại vương! Cho nên kinh Paritta có nghĩa là "kinh hộ trì an lành"! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt, tâu đại vương!- Bây giờ thì trẫm hoàn toàn hiểu rồi!- Đại vương, quả thật vậy, những người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!- Đại đức có bằng cớ chăng?- Thưa, có. Tại thành Vesàli, đại đức Ànanda đã tụng kinh Paritta, cả đêm, trọn ba vòng thành; tất cả chư thiên trong nhiều cõi giới ta bà đều hoan hỷ, và sau đó tất cả sự kinh sợ như bệnh dịch, phi nhơn và sự đói khát của nhân dân trong thành Vesàli đều được tai qua nạn khỏi!- Trẫm cũng có đọc qua đoạn kinh ấy, sau đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành, nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói cũng vì thế. Còn nhờ sao mà phi nhơn hết quấy phá nữa thì trẫm không Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng thái tâm nóng nảy, hung dữ ... lắng dịu lại, tâu đại vương!- Rất là chí lý. Nhưng oai lực kinh Paritta còn diệu dụng nào kỳ lạ nữa chăng?- Vâng, có, tâu đại vương! Các vị Thánh Tăng, Cao Tăng thường truyền tụng rằng, nếu chuyên trì tụng kinh Paritta thì rắn độc phải lặng lẽ cúi đầu bỏ đi, không dám có ý định cắn mổ nữa. Kẻ trộm vừa giơ gậy muốn đánh, nghe kinh Paritta, phải dịu dàng bỏ thỏng tay xuống. Voi số mạch nổi cơn dục rất hung dữ, chạy đến muốn chà đạp người, nghe kinh Paritta, chúng sững lại, hiền lành ngoan ngoãn bỏ đi. Dùng lửa cháy cực mạnh đốt người - đang trì tụng kinh Paritta, lửa ấy không hại người ấy được. Dùng thuốc độc cũng không hại người tụng kinh Paritta . Thật lạ lùng làm sao!- Chưa đâu đại vương! Lại có trường hợp một con công quyết tâm tụng kinh Paritta để tự bảo vệ mình, có người thợ săn kiên trì đơm bẫy tới bao nhiêu năm cũng không bắt được. Đến khi con công ấy sầu muộn vì luyến ái một con công mái mà quên không tụng kinh Paritta, trong một ngày thôi thì đã bị dính bẫy người thợ Trẫm cũng có biết câu chuyện ấy, nói tóm lại là kinh Paritta có năng lực bảo vệ, hộ trì; nhưng trẫm thắc mắc là kinh ấy bảo vệ, hộ trì cho tất cả chúng sanh, tất cả mọi người hay cho một loài, một nhóm, một số người nào đó thôi?- Không thể hộ trì cho tất cả Tại sao thế, đại đức?- Đại vương, ngài nghĩ thế nào, vật thực có hộ trì cho sanh mạng tất cả chúng sanh chăng?- Thưa, có người hộ trì được, có người không Tại sao lại như vậy?- Ví như có người ăn vật thực quá độ, chất lửa trong bao tử không thể tiêu hóa được, sẽ đầy hơi tức bụng mà chết. Trường hợp ấy gọi là vật thực không thể hộ đức Na-tiên hỏi lại- Thế thì vật thực không thể hộ trì sanh mạng chúng sanh chỉ có hai nguyên nhânThứ nhất, thọ dụng vật thực quá hai, do chất lửa trong bao tử non nên không tiêu hóa vật thực Đúng như thế, thưa đại đức!- Vật thực vốn là món nuôi sanh mạng chúng sanh, nhưng bởi lẽ chúng sanh tham ăn tham uống quá độ, không biết thọ dụng chừng mực, vừa phải - nên nó trở thành thủ phạm giết hại sanh mạng chúng sanh, phải vậy không đại vương?- Thật là chính xác!- Kinh Paritta cũng như vật thực vậy, tâu đại vương! Kinh Paritta có người hộ trì được, có người không! Những người mà kinh Paritta không thể hộ trì được có ba lý do sauMột là, do năng lực nghiệp ác cản là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ tụng đọc vẹt nơi miệng!Đấy là ba cản trở lớn làm cho Paritta không thành tựu, tâu đại vương!- Như vậy là do chính lỗi lầm, sái quấy của người tụng đọc chứ không phải do kinh Paritta!- Đúng thế, tâu đại vương! Vật thực cũng như kinh, vốn không có tội Đại đức có khả năng cho ví dụ về điều ấy không?- Thưa được! Ví như có bà mẹ sanh đứa con một, biết bao công lao ẵm bồng, bú mớm, dọn phân, dọn nước tiểu. Lớn hơn chút nữa, lại phải áo quần, trang điểm, giáo dưỡng, dạy bảo nhiều bề. Tuy nhiên, giả dụ như sau này đứa con sinh hư, phạm tội với luật pháp. Người mẹ đau khổ, tìm cách đến công đường cố xin ân xá tội cho con! Tâu đại vương, nếu là đại vương thì đại vương có xá tội cho người con ấy không?- Người mẹ ấy cũng đáng thương, nhưng luật pháp nghiêm minh, nếu tha thứ cho một người thì nhân dân sẽ khinh nhờn mà phạm nhiều tội khác Vâng, như thế có nghĩa là ai làm nấy chịu, nghiệp ai kẻ ấy phải thọ quả báo! Người mẹ kia không thể xin tội cho con như thế nào - thì kinh Paritta cũng không thể hộ trì cho những người đã bị ba lý do nêu trên cản ngăn!Đến đây, đức vua hết lòng khen ngợi- Quả là biện tài. Quả là đại đức có khẩu ngôn thiện xảo. Cách trả lời với nhiều ví dụ, so sánh của ngài làm cho càng lúc chính đề càng thêm sáng tỏ. Hoài nghi đã chấm dứt. Mắt mờ đã được sáng. Lưới tà kiến đã được tháo gỡ. Trí tuệ của đại đức thật là siêu việt Không dám! Với những câu hỏi của đại vương, bần tăng cũng toát mồ hôi khi cố đưa ra những kiến giải non nớt, nông cạn, mong đại vương hỷ xả cho!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Không cần thiết phải khiêm tốn như thế, đại đức! Chúng ta đối thoại với nhau, ngay từ đầu đã xác định là cách đối thoại của bậc trí giả mà! Vậy khách sáo với nhau làm Na-tiên cũng mỉm cười ý Đọc tụng chú Đại Bi, hiểu được ý nghĩa và công đức trì chú Đại Bi Tâm Đà La Ni để được hưởng vô vàn lợi ích, giải trừ ác nghiệp, tiêu tan giải nạn. Chú Đại Bi có lẽ là bài trì chú mà hầu hết các Phật tử đều biết đến, các chùa cũng thường trì tụng chú trong các thời kinh. 1. Thực chất Chú Đại Bi là gì mà linh ứng đến vậy? Chú Đại Bi còn gọi là Đại Bi Tâm Đà La Ni là bài kinh, câu thần chú Phật giáo Đại thừa căn bản minh chứng công đức của Đức Phật Quán Thế Âm hay Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây là thần chú quảng đại viên mãn, cứu khổ cứu nạn, cứu nhân độ thế, tiễu trừ tai ách. Kinh Đại Bi chú gồm 84 câu, 415 chữ, rất phổ biến ngày nay và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau và khi tụng được trì niệm ở nhiều biến khác nhau. Vậy biến là gì? – Chú Đại Bi 5 biến, 7 biến, 9 biến, 21 biến là gì? “Biến” trong khái niệm này chính là 1 lần niệm hết bài chú. Như vậy, kinh Đại Bi chú có 84 câu, mỗi lần niệm hết 84 câu này thì được gọi là 1 biến. Nếu trì niệm bài chú lặp lại 5 lần gọi là 5 biến, lặp lại 7 lần là 7 biến… tức cứ lặp đi lặp lại bao nhiêu lần thì được coi là bấy nhiêu biến. 2. Nguồn gốc của Đại Bi Chú Ai cũng biết sự kỳ diệu của thần chú này, nhưng nguồn gốc kinh Đại Bi không phải ai cũng nắm rõ. Đây là Thần chú được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Các tên gọi khác thường gặp Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thanh Cảnh Đà La Ni Quảng Đại Viên Mãn; Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni; Cứu Khổ Đà-Ra-Ni; Diên-Thọ Đà-Ra-Ni; Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni; Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni; Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni; Tùy-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni; Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni. Thần chú này do chính Đức Phật Thích Ca thuyết giảng trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan… cùng câu hội. Trong pháp hội này, Quan Thế Âm Bồ Tát vì tâm đại bi đối với chúng sinh, muốn cho chúng sinh được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu mà nói ra Thần Chú này. Kinh điển thuật lại câu chuyện nguồn gốc có Thần chú này giữa Quán Thế Âm Bồ Tát Avalokitesvara và chư Phật Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng “Bạch đức Thế Tôn, con có Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh tật, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.” Rồi sau đó đọc thần chú lên. Bồ Tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng sinh đều được quả chứng. Vui mừng trước sự kì diệu của Đại Bi chú, Ngài bèn phát đại nguyện “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay”. Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, “tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh”. 3. Những lợi ích khi trì tụng Chú Đại Bi Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch thời Đường, toàn bài chú này có 84 câu, người trì tụng thần chú Đại Bi sẽ được 15 điều lành, không bị 15 thứ hoạnh tử bức hại. Được 15 điều lành 1. Sinh ra thường được gặp vua hiền, 2. Thường sinh vào nước an ổn, 3. Thường gặp vận may, 4. Thường gặp được bạn tốt, 5. Sáu căn đầy đủ, 6. Tâm đạo thuần thục, 7. Không phạm giới cấm, 8. Bà con hòa thuận thương yêu, 9. Của cải thức ăn thường được sung túc, 10. Thường được người khác cung kính, giúp đỡ, 11. Có của báu không bị cướp đoạt, 12. Cầu gì đều được toại ý, 13. Long, Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ, 14. Được gặp Phật nghe pháp, 15. Nghe Chánh pháp ngộ được nghĩa thâm sâu. Không bị 15 thứ hoạnh tử 1. Chết vì đói khát khốn khổ, 2. Chết vì bị gông cùm, giam cầm đánh đập, 3. Chết vì oan gia báo thù, 4. Chết vì chiến trận, 5. Chết vì bị ác thú hổ, lang sói làm hại, vì rắn độc, bò cạp, 7. Chết trôi, chết cháy, 8. Chết vì bị thuốc độc, 9. Chết vì trùng độc làm hại, 10. Chết vì điên loạn mất trí, 11. Chết vì té từ cây cao hoặc rớt xuống vực thẳm, 12. Chết vì người ác trù ếm, 13. Chết vì tà thần, ác quỷ làm hại, 14. Chết vì bệnh nặng bức bách, 15. Chết vì tự tử. Ngoài ra, theo kinh Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú quyển thượng, trì tụng chú này 108 biến, tất cả phiền não tội chướng đều được tiêu trừ, thân khẩu ý thanh tịnh. Thần chú Đại Bi được các tông phái Phật giáo trì niệm rất phổ biến và thịnh hành. Tuy nhiên, thần chú này được các nhà Phật học dịch khác nhau về tên kinh cũng như chương cú. Đơn cử như bản dịch chú Đại Bi của ngài Bồ Đề Lưu Chi có 94 câu, bản dịch của ngài Kim Cương Trí có 113 câu, bản dịch của ngài Bất Không có 82 câu… Muốn trì chú này thì phải phát Bồ đề tâm, kính giữ trai giới, tâm luôn bình đẳng với mọi loài và phải trì tụng liên tục. Đọc thêm Nghi thức trì tụng Chú Đại Bi đúng pháp đơn giản tại nhà 4. Uy lực của chú Đại Bi Có một thanh niên tên Tiểu Phí, sau khi tôi khuyên y dứt tuyệt đồ mặn, ăn chay trường, tập tĩnh tọa rồi, thì chưa đầy mấy ngày y đã đạt được một số năng lực vi diệu. Một hôm y đến nhà tôi chất vấn – Ngài nói tụng Chú Đại Bi uy cảm thiên địa hả? Nhưng hằng ngày, sáng nào tôi cũng đều tụng mười biến Chú Đại Bi, song chẳng thấy hiện tướng lành gì ráo, chỉ thấy quỷ thần qua đường ngó tôi nửa mắt mà thôi, việc này là sao vậy? Lúc đó Quả Đạt con trai tôi 15 tuổi cũng đang ở đó. Thế là tôi bảo cả hai – Bây giờ tôi tụng Chú Đại Bi, Tiểu Phí thì lo nhìn cảm ứng trên trời, còn Quả Đạt thì theo dõi cảm ứng nơi địa ngục nhé! Căn dặn xong tôi liền ngồi khoanh chân, gõ mỏ chuông lúc đó tôi còn rất chấp tướng, thực ra chẳng cần vậy và bắt đầu tụng Chú Đại Bi. Tôi tụng chưa được mấy câu, thì chợt nghe tiếng Tiểu Phí khóc nức nở bên tai. Sau khi tụng xong, tôi hỏi y – Vì sao mà khóc vậy? Y đáp – Ngài vừa gõ chuông, thì tôi thấy có rất nhiều Thiên nhân, quỷ thần tụ hội, ngài vừa đọc chú lên thì có rất nhiều thiên chúng đồng quỳ xuống chắp tay nghe, có lúc họ đứng chắp tay nghe, còn có hai con rồng đang bay cũng đáp xuống, nằm trên đất lắng nghe. Ngài tụng xong rồi thì tất cả đều hành lễ mà đi, tôi chấn động quá nên bật khóc. Quả đạt thì kể trong lúc tôi tụng chú, nơi địa ngục liền đình chỉ tất cả hình phạt trị tội. Toàn bộ kẻ thọ hình đều quỳ tại đó chắp tay hướng lên nghe Chú Đại Bi. Tụng chú xong, thì nơi địa ngục bắt đầu hành hình lại, nhưng mức độ giảm đi, người thọ hình chịu thống khổ cũng nhẹ hơn. Nghe họ kể tự nhiên tâm tư tôi cao hứng, thế là tôi bảo Tiểu Phí – Giữ giới chẳng phải chỉ là không sát sinh, không ăn thịt mà còn phảiKhông làm các điều ác, siêng làm các điều lành, thành thật sám hối các tội nghiệp đã tạo trong quá khứ nữa. Hễ bạn càng tinh tấn sửa tật tánh mình, thì âm thanh tụng chú biến chuyển càng vang xa và chúng sinh đến nghe kinh càng đông! Tụng kinh là như vậy đó! Tụng chú là nương sức mạnh của chú làm tiêu tội nghiệp, quỷ thần Thiên nhân nghe rồi lập tức cũng tiêu định nghiệp của họ. Tụng kinh ắt có thể khiến chúng sinh hiểu đạo lý, biết sai hối lỗi, vĩnh viễn dứt vô minh. Người tu hành chân chính tụng kinh, sẽ khiến Thiên nhân nghe được tăng thọ, quỷ thần sớm ra khỏi ác đạo chuyển sinh vào cõi lành. Hễ ai không làm các điều ác, luôn làm các điều lành, thì khi tụng kinh trì chú sẽ chiêu cảm vô lượng công đức. Nếu người tham sân si nặng hoặc không giữ giới mà tụng kinh trì chú thì chưa thể đạt được những cảm ứng vi diệu đến mức đó. Xong dù sao cũng tốt hơn là không tụng Lúc đó tôi mới trì giới, thời gian bỏ mặn ăn chay chưa được lâu, cho nên chỉ tụ tập được nhiều thiên nhân, quỷ thần đến nghe chú. Nếu như tôi tu hành tốt, ắt sẽ có vô lượng chúng sinh đến nghe kinh, thọ ích. Hơn nữa trong lúc tụng kinh chú, tâm phải định tĩnh chuyên nhất, nếu không sẽ khó đạt kết quả tuyệt đối. Tác giả Quả Khanh, Dịch Hạnh Đoan 5. Ý nghĩa khi nghe tụng thần chú Đại Bi Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng. Tác giả Tâm Minh! Tâm Hướng Phật! Kinh Phổ Môn là gì mà vào những dịp khánh hỷ, cầu an thường được các gia đình đi cầu nguyện, tụng kinh mong ước cho mưa thuận gió hoà. Ý nghĩa của loại kinh này ra sao? Nội dung như thế nào?Hãy tham khảo bài viết sau để hiểu hơn về kinh Phổ Môn. Danh Mục Nội Dung1. Kinh Phổ Môn là gì?2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn?6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà?2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn 1. Kinh Phổ Môn là gì? Là bài kinh được nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Loại kinh này được gọi với tên thông thường là kinh quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Qua bài kinh để giới thiệu “quán chiếu” cuộc đời nhằm cho chúng sinh giác ngộ, giải thoát bằng phương pháp tu tập phổ biến. Bản kinh Phổ có nguyên tắc viết bằng chữ Sanskrit. Hiện nay được dịch theo 3 bản chữ Hán như sau Bản đầu tiên của ngài Trúc Pháp Hộ có tựa đề”Quan Thế Âm Bồ tát”. Đây là tác phẩm thứ 23 nằm trong Chánh Pháp Hoa Kinh. Bản thứ 2 của ngài Cưu ma la thập dịch có tựa đề “Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm”. Tác phẩm thứ 25 trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Bản thức 3 được dịch bởi ngài Xà na quật đa và Đạt ma cấp đa dịch có tựa đề “Quan Thế Âm bồ tát Phổ Môn Phẩm. Giống với tên bản dịch của ngài Cưu ma la thập. Bản nằm trong phẩm thứ 24 của Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh. Sách kinh Phổ Môn Cả ba bản dịch chỉ có bản thứ 3 là đầy đủ 2 phần văn xuôi và thi hoá phần văn xuôi. Khi bản dịch thứ 3 ra đời được người dân sử dụng đến nay. Bản dịch tiếng Việt được lấy từ bản chữ Hán của Cưu ma la thập, được giữ nguyên phần thi hoá văn xuôi. Bởi nội dung có trong phần thi hoá văn xuôi không có trong phần văn. Ngược lại, nội dung trong phần văn sẽ không có trong phần thi hoá văn xuôi. *** Tìm hiểu thêm Nghi thức khai quang điểm nhãn là gì ? Ý nghĩa của khai quang điểm nhãn 2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn Bài kinh Phổ Môn có tính ẩn dụ cao. Thế nên để hiểu được ý nghĩa của bài kinh cần nghiên cứu sâu sắc. Bởi đọc kinh không chỉ nhìn chữ để tụng kinh mà quan trọng là chúng ta phải hiểu được ý nghĩa bên trong. Tụng kinh không đồng nghĩa với điều ước đạt được. Bồ tát không phải là thần linh có thể cứu nguy. Do đó mà mục tiêu của việc tụng kinh không phải để cầu xin, van xin sự giúp đỡ. Cốt lõi của việc tụng kinh là cách chúng ta tu tập quán chiếu cuộc đời. Phương pháp này giúp con người khởi duyên để tự giải thoát khỏi đau khổ. Bản thân sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, thanh tịnh hơn. Ngoài ra, ý nghĩa của kinh Phổ Môn là sự bao dung, tình thương mà Bồ tát ban cho chúng ta thông qua cách thức độ sinh. Mỗi người tu tập sẽ khác nhau, dựa vào căn cơ khác nhau. Và ứng thân với các vị Bồ tát khác nhau. Kinh Phổ Môn là phương pháp giúp con người thoát khỏi bề khổ Không có vị Bồ Tát nào cứu giúp chúng ta cầu gì, ước gì sẽ được đó. Bởi luật nhân quả giống nghiệp báo. Bài kinh sẽ chỉ cho chúng ta hiểu trong cuộc đời mỗi con người có 5 loại âm thanh hiện hữu. Đó là Diệu Âm, Phạm Âm, Quán Thế Âm, Hải Triều âm và Siêu việt thế gian Âm. Đổi lại sẽ có 5 pháp quán chiều Chân Quán, Bi Quán, Từ Quán, Thanh tịnh quán và Quảng đại trí tuệ quán. Dựa vào đó mà chúng ta có thể giúp bản thân tự giải thoát chính mình ra khỏi bể khổ. Tu tập, tự cứu mình và vị tha nhân khỏi bất hạnh. 3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn Trong bài kinh Phẩm Phổ Môn sẽ có 3 nội dung chính như sau Thần lực trì danh Quan Âm. Cứu thế độ sinh qua 33 ứng thân. Phương pháp ngũ âm, ngũ quán. Nội dung của kinh Phổ Môn đầu tiên là giới thiệu sự tương giao trong nhân quả. Giữa Quan thế Âm bồ tát với chúng sinh. Quan Thế Âm là người ban niềm vui cho con người. Là điểm tựa, nuôi dưỡng trí tuệ, tu thân tích đức, nỗ lực trở thành người thánh đức. 4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn Khoá tụng kinh Phổ Môn được chia thành 3 phần bao gồm Phần đầu tiên Nghi thức dẫn nhập có 5 tiết mục là nguyện hương, tán hương, đảnh lễ ba ngôi báu, phát nguyện trì kinh, tán dương giáo pháp. Phần 2 Chính kinh. Giới thiệu hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Phần 3 Sám nguyện và hồi hướng. Ban đều sẽ học bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài học giúp người tụng kinh độc diệt từ tất cả các đau khổ trong cuộc đời. Phương pháp được áp dụng ở phần này là quán chiếu năm yếu tố để hình thành con người. Khi kể đến 12 lời nguyện Bồ Tát Quan Thế Âm giúp người học tu học hiểu về bản nguyện cứu thế độ sinh. *** Tìm hiểu thêm Linh thú cát tường là gì? Cách chọn linh thú phù hợp theo tuổi và mệnh 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn? Người ta thường đi tụng kinh Phổ Môn vào các dịp chủ yếu như Cầu an. Cầu quốc thái dân an. Cầu khỏi bệnh. Cầu tai qua nạn khỏi. Cầu gia đạo bình an. Cầu mưa thuận gió hoà. Hoặc có thể tụng kinh Phổ Môn vào các dịp khác như Khánh hỷ. Lễ khai trường. Lễ khởi công. Lễ an vị Phật. Lễ mừng thọ, chúc thọ. Lễ đáo tuế. Lễ sinh nhật. Đây đều là những dịp đặc biệt trong đời sống con người. Có vai trò quan trọng giúp đời sống đi lên, phát triển hơn. 6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn Bồ Tát Quan Thế Âm khởi đại nguyện cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Nên khi gặp khổ nạn con người thường xưng niệm danh hiệu ngài nhằm cầu mong sự an ổn. Sự tương giao giữa 2 tâm thức giúp chúng sinh đạt được sự an ổn. Để tụng kinh Phổ Môn đúng cách và hiệu quả cần lưu ý những điều sau 1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà? Nếu như gia đình bạn có bàn thờ Phật ở nhà có thể thực hiện việc cầu an tại gia là tốt nhất. Trường hợp nơi ở chật hẹp, ồn ào, điều kiện không cho phép có thể tiến hành cầu an ở chùa. Dù là cầu an ở nhà hay ở chùa đều phải chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm. Những vật cần thiết trong lễ cầu an phải có như hoa quả, hương đèn,… Chúng ta dâng cúng những gì, tốt hay xấu, nhiều hay ít,.. không quan trọng. Mà điều cốt yếu là mọi thứ từ chí thành, nghiêm cẩn trong khả năng cho phép. Bản Kinh Phổ Môn bán chạy trên thị trường 2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? Để đạt hiệu quả thành công, trước khi tụng kinh Phổ Môn cần lau dọn, bày bàn thờ Phật trang nghiêm, sạch sẽ. Tốt nhất nên tự mình làm không sai bảo người khác. Trừ trường hợp những người tham gia chuẩn bị có tâm nguyện cầu an, là con cái trong gia đình. Sau đó, gia chủ đứng trước bàn thờ Phật chí thành lễ bái. Lúc này nghi thức cầu an chính thức bắt đầu. Tụng phẩm kinh Phổ Môn được trình bày rõ ràng, nghi thức trang nghiêm. 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn Để buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra thành công, đạt hiệu quả cao thì gia chủ cần lưu ý các điều sau Có thể tụng kinh theo bản dịch tiếng Việt để tạo hiệu quả tốt, hiểu được ý nghĩa của từng câu kinh. Cần tập trung hết sức, suy ngẫm về ý nghĩa của các câu kinh, tiếng kệ. Điều này giúp chúng ta hòa quyện với không khí trang nghiêm buổi tụng kinh. Từ đó thấm đẫm được ý nghĩa các câu kinh trong tâm trí. Chuẩn bị mọi thứ thật đầy đủ, cẩn thận, ăn mặc trang nghiêm. *** Tìm hiểu thêm Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân là gì? Đặc điểm của Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân Với các lưu ý trên giúp buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra theo đúng mong muốn, đạt hiệu quả cao. Qua những chia sẻ trên bạn hiểu được kinh Phổ Môn là gì? Đồng thời biết được ý nghĩa và nội dung của bài kinh này. Từ đó vận dụng một cách khoa học.

trì tụng là gì